Phần này xin phép được bàn sâu về vai trò của Đại học Bách khoa Hà Nội (BKHN) trong công cuộc chấn hưng giáo dục đại học, vốn là cái “cớ” để chúng ta bàn tán mấy hôm nay.
Như chúng ta thấy trong stt trước, tình hình Make Thing khá là ảm đạm. Xã hội không coi trọng. Chính phủ thờ ơ. Các doanh nghiệp thì từ kinh nghiệm xương máu của mình phát hiện ra là nếu chăm chăm Make Thing thì chỉ có nước sập tiệm sớm. Vậy sao lại lớn tiếng kêu gọi BKHN đâm đầu vào chỗ chết. Đại học suy cho cùng là chuẩn bị lao động cho xã hội. Xã hội không cần thì làm làm gì? Chưa kể BKHN bây giờ phải tự chủ, tự lo tuyển sinh, mức học phí, hàng trăm hàng ngàn thứ cơm áo gạo tiền.
Hoang đường!
Khi nói chuyện với lãnh đạo BKHN, tôi hay nhắc các bạn rằng “Tự chủ” chỉ là một cách nói khác của Nhà nước, là “Tao không lo được cho mày nữa rồi, tự sống đi, cán bộ nhân viên kêu ca đừng đổ tại cho tao nữa.”, thực chất là đá đít bọn em khỏi vùng an toàn!
Khoản 3, 4, 5 Điều 32 Luật Giáo dục đại học 2012 (sửa đổi, bổ sung 2018), các quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học bao gồm:
- Quyền tự chủ trong học thuật, trong hoạt động chuyên môn bao gồm ban hành, tổ chức thực hiện tiêu chuẩn, chính sách chất lượng, mở ngành, tuyển sinh, đào tạo, hoạt động khoa học và công nghệ, hợp tác trong nước và quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật.
- Quyền tự chủ trong tổ chức và nhân sự bao gồm ban hành và tổ chức thực hiện quy định nội bộ về cơ cấu tổ chức, cơ cấu lao động, danh mục, tiêu chuẩn, chế độ của từng vị trí việc làm; tuyển dụng, sử dụng và cho thôi việc đối với giảng viên, viên chức và người lao động khác, quyết định nhân sự quản trị, quản lý trong cơ sở giáo dục đại học phù hợp với quy định của pháp luật.
- Quyền tự chủ trong tài chính và tài sản bao gồm ban hành và tổ chức thực hiện quy định nội bộ về nguồn thu, quản lý và sử dụng nguồn tài chính, tài sản; thu hút nguồn vốn đầu tư phát triển; chính sách học phí, học bổng cho sinh viên và chính sách khác phù hợp với quy định của pháp luật.
Ngoài các nguồn tài chính theo quy định, các cơ sở giáo dục đại học còn có các nguồn tài chính theo khoản 1 Điều 30 Nghị định 60/2021/NĐ-CP như sau:
- Ngân sách nhà nước cấp kinh phí cho cơ sở giáo dục đào tạo, giáo dục nghề nghiệp công lập để thực hiện chính sách miễn, giảm học phí; hỗ trợ chi phí học tập và chính sách hỗ trợ khác cho học sinh, sinh viên (nếu có) theo quy định của Nhà nước;
- Thu học phí theo quy định của pháp luật về giáo dục, giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp và các quy định của Chính phủ về học phí;
- Thu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ, bao gồm:
+ Thu dịch vụ giáo dục đào tạo theo phương thức giáo dục thường xuyên, đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn về chuyên môn nghiệp vụ, bổ sung kiến thức, kỹ năng để cấp chứng chỉ, giấy chứng nhận đào tạo và các hình thức đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn khác
+ Thu từ hoạt động hợp tác đào tạo với doanh nghiệp
+ Thu từ hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ
+ Thu dịch vụ tư vấn giáo dục đào tạo, thu từ các dịch vụ khác phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của cơ sở giáo dục đào tạo và quy định của pháp luật. Các khoản thu dịch vụ này phải được quy định cụ thể và công khai.
Tất cả các khoản thu này, được dùng để: “chi cho các hoạt động thường xuyên, bảo đảm đạt chuẩn chất lượng đầu ra theo đúng cam kết.”
Tóm lại về chuyên môn: chủ động mở ngành mới, thay đổi phương thức đào tạo, hợp tác quốc tế, nghiên cứu bất cứ lĩnh vực gì mình muốn. Về nhân sự, toàn quyền bổ nhiệm, trả lương, sa thải…Về quản trị, có thể theo bất cứ triết lý nào có lợi cho trường.
Còn muốn có tiền để chi, thực chất chỉ có 2 nguồn chính
- Thu học phí từ sinh viên
- Thu từ hợp tác với doanh nghiệp, thông qua các hình thức hợp tác đào tạo hay nghiên cứu khoa học chuyển giao công nghệ tùy thích.
Bị đá đít ra khỏi vùng an toàn, nhưng Nhà nước cũng đã để lại cho BKHN khá nhiều “tài sản”, trong đó quan trọng nhất chính là giá trị thương hiệu. Nếu có một đơn vị nào đó đứng ra đánh giá thương hiệu của các trường đại học thì BKHN chắc chắn sẽ đứng số 1. Đại học FPT của chúng tôi, sở dĩ thành công, cũng nhờ phần lớn được ăn theo thương hiệu của FPT.
Thương hiệu, đó là sự tin cậy của phụ huynh và sinh viên. Thương hiệu đó là sự độc đáo và khác biệt. Thương hiệu BKHN không gắn với “nghiên cứu khoa học”. Make những Thing phức tạp, chắc chắn phải đòi hỏi nghiên cứu. Nhưng kết quả phải là sản phẩm cụ thể. BKHN chưa bao giờ nổi tiếng vì số lượng bài báo được đăng trên các tạp chí, cũng không phải vì số GS TS đang giảng dạy ở trên trường, mà là ở hàng chục ngàn những Kỹ sư đã tốt nghiệp, thành danh ở rất nhiều lĩnh vực ở Việt Nam và trên thế giới. Tôi nhấn mạnh danh xưng Kỹ sư. Và việc của người Kỹ sư là chủ trì chế tạo ra sản phẩm.
Về nhiệm vụ chính trị, BKHN phải mạnh dạn tuyên bố với Nhà nước rằng, nếu các bác thực sự muốn có nhiều sản phẩm Make in Vietnam, thì chỉ có chúng tôi mới có thể thực hiện được. Và không e ngại đòi hỏi sự giải phóng về chính sách: “Không cấp tiền, thì hãy cho chúng tôi được quyết định cơ chế.”
Nói về các khoản thu. Nước ta còn nghèo, đại gia thì mới nổi, nên so với các trường nước ngoài, có lẽ thiếu một nguồn quan trọng nhất là khoản hiến, tặng của các nhà hảo tâm. Đâm ra cũng khoai. Nhưng cái khó phải ló cái khôn, “bố mẹ” không nuôi đươc, mình phải tự lo thôi.
Nguồn đầu tiên: Học phí. Với thương hiệu của mình, BKHN có lợi thế vượt trội khi tuyển sinh. Có quyền lựa chọn tiêu chí. Có thể tăng học phí nếu hạn chế số lượng tuyển sinh hoặc có phương án đào tạo bảo đảm chất lượng cho đông sinh viên mà vẫn giữ mức học phí “trường công”… Nhưng chuyện đấy ko phải là chủ đề của stt này.
Nguồn thứ hai. Đó là doanh nghiệp. Nếu chỉ cho rằng Doanh nghiệp phải “đầu tư”, tức là cấp tiền cho trường học làm R&D là chưa nhìn hết vai trò của doanh nghiệp. Với BKHN, Doanh nghiệp phải là kênh để có thể nắm bắt được nhu cầu của thị trường. Như trong stt trước đã đề cập: như cầu về các sản phẩm tốt “make in Việt nam” ở thị trường Việt Nam vẫn đủ lớn. Ví dụ có một bạn mạnh dạn khẳng định, nếu BKHN chế tạo được các thiết bị giảng dạy phục vụ khung chương trình giáo dục 2018, chắc chắn sẽ mua. Cũng có khá nhiều doanh nghiệp đang bắt đầu thành công trong thị trường này, đủ để thổi lên một ngọn lửa lớn.
Mục tiêu của BKHN là làm thế nào để có thể thu được tiền từ doanh nghiệp. Xin nhớ là thu chứ không phải xin. Các doanh nghiệp Việt Nam, kể các đại gia, thường mới giàu nên cũng chưa đủ thoát “hèn”. Bởi thế không nên hy vọng vào “bầu sữa” của mấy ông lớn như Vin, Samsung, hoặc Viettel và nhất là FPT (vốn rất kẹt xỉn). Mà ngay giàu có như Vin, họ cũng đã tuyên bố chỉ tài trợ cho VinUni trong vòng 10 năm. Mà giờ đã hết năm thứ 3.
Muốn thu được tiền từ doanh nghiệp, thì phải tạo ra giá trị thật cho họ! Tức là BKHN phải thật sự coi lực lượng giảng viên và học sinh ưu tú của mình chính là lực lượng sản xuất, có thể cùng với Doanh nghiệp giải các bài toán thực tế của thị trường. Với đầu vào chất lượng cao, một chương trình học thiết kế hợp lý, có thể biến sinh viên từ năm thứ ba trở đi trở thành lực lượng lao động chính. Các giảng viên được đào tạo kỹ lưỡng về lý thuyết, trong và ngoài nước, nếu mạnh dạn đi vào thực tế, hoàn toàn có thể trở thành những “Product Owner” – Những người dẫn dắt quá trình tạo ra sản phẩm.
Chắc chắn đây sẽ là một hành trình hết sức khó khăn cho BKHN. Nhưng tôi tin rằng, nếu định vị thương hiệu thật chuẩn xác, thiết lập được cơ chế hợp tác giữa các khoa trong trường, tập hợp được lực lượng của nhiều thế hệ các cựu sinh viên, BKHN chắc chắn sẽ là lá cờ đầu thay đổi hình ảnh giáo dục đại học Việt Nam, trả lại danh xưng xứng đáng cho các Kỹ sư Việt Nam.
Ảnh: Một trang sách "Bác vật tân biên" (sách nói về khoa học được dịch từ tiếng Anh sang tiếng Hán, với từ bác vật ý chỉ kỹ sư) do Phạm Phú Thứ, một đại thần triều Nguyễn chủ trì khắc in vào những năm giữa cuối thế kỷ XIX. (Wikipedia)